Bài 97: Bối cảnh Do Thái thời Gioan Tẩy Giả | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa
TGPSG -- Trong Chúa Nhật II Mùa Vọng, chúng ta sẽ được nghe trích đoạn Tin Mừng Lu-ca 3,1-6 đề cập đến bối cảnh lịch sử mà ông Gio-an Tẩy Giả khởi sự sứ vụ rao giảng, kêu gọi dân Ít-ra-en sám hối để chờ đón ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Vậy, trong buổi học hỏi Kinh Thánh tuần này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu sơ lược về bối cảnh lịch sử của dân Do-thái trong giai đoạn đầu thế kỷ I, để có thể thấy rõ hơn lý do tại sao ông Gio-an Tẩy Giả xuất hiện và tại sao mọi thành phần dân chúng ùn ùn kéo đến để nghe ông rao giảng.
I. Bối cảnh chính trị đất Pa-lét-tin
Năm 63 tr.CN, tướng Pompey cùng đại quân Rô-ma đã đến chiếm Giê-ru-sa-lem và biến xứ sở Pa-lét-tin thành thuộc địa của Rô-ma. Thời gian đầu, người Rô-ma vẫn duy trì chế độ thần quyền ở Ít-ra-en và để người Do-thái tự trị. Vì thế, ông Hiếc-ca-nô của nhà Ma-ca-bê vẫn giữ chức thượng tế và nắm quyền cai trị Ít-ra-en. Tuy nhiên sau đó do các biến động chính trị, nên chính quyền Rô-ma đã đặt Hê-rô-đê Cả, người I-đu-mê, lên nắm quyền cai trị Ít-ra-en. Kể từ đó, chế độ thần quyền của Ít-ra-en bị bãi bỏ, và người Do-thái ngày càng cảm thấy ngột ngạt dưới ách đô hộ của ngoại bang.
1. Vua Hê-rô-đê Cả và các con trai vua
Để củng cố bộ máy cai trị của mình, vua Hê-rô-đê Cả (37-4 tr.CN) đã loại bỏ tầng lớp quý tộc cũ thuộc nhóm Xa-đốc có khuynh hướng ủng hộ nhà Ma-ca-bê, và thay thế bằng tầng lớp quý tộc mới thuộc nhóm Xa-đốc nhưng ủng hộ vua. Vua cũng “lấy lòng” người Do-thái bằng cách cưới con gái nhà Ma-ca-bê, hạn chế chính sách Hy-lạp hóa, tôn trọng luật Mô-sê, và tái thiết đền thờ Giê-ru-sa-lem, nhờ đó bối cảnh chính trị và xã hội của Ít-ra-en thời vua Hê-rô-đê Cả tương đối yên ổn. Tuy nhiên sau khi vua Hê-rô-đê Cả băng hà thì mọi thứ đã thay đổi hoàn toàn kéo theo việc đất Pa-lét-tin bị phân chia làm nhiều khu vực do các con trai vua cai trị:
+ Hê-rô-đê An-ti-pa là tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê và Pê-rê-a (khoảng 4-39). Ông này là người đã cưới bà Hê-rô-đi-a, vợ của anh trai mình (x. Lc 3,19). Nhà vua là người đã truyền lệnh chém đầu ông Gio-an Tẩy Giả (x. Mt 14,10) và cũng là người tham gia việc xét xử Đức Giêsu (x. Lc 23,8-12).
+ Hê-rô-đê Ác-khê-lao là tiểu vương cai trị miền Sa-ma-ri, Giu-đê và I-đu-mê (khoảng 4-6), tuy nhiên sau đó vua bị hoàng đế Rô-ma phế bỏ và bắt đi lưu đày. Kể từ đó xứ Sa-ma-ri, Giu-đê và I-đu-mê trở thành một tỉnh của đế quốc Rô-ma đặt dưới quyền cai trị của một vị tổng trấn người Rô-ma (trong đó có tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô).
+ Philípphê là tiểu vương cai trị miền I-tu-rê và Tra-khô-nít thuộc phía bắc đất Pa-lét-tin (khoảng 4-34) và lấy cháu gái của mình là cô Sa-lô-mê, con gái của bà Hê-rô-đi-a.
Mặc dù xứ Pa-lét-tin lúc bấy giờ được chia thành các vùng miền và được trao cho các tiểu vương nhà Hê-rô-đê, nhưng quyền cai trị thực sự nằm trong tay chính quyền bảo hộ Rô-ma, mà nhân vật cụ thể được nhắc tới trong Lc 3,1-6 là tổng trấn Phi-la-tô.
2. Tổng trấn Phi-la-tô
Phi-la-tô làm tổng trấn xứ Giu-đa từ năm 26 đến 37. Lịch sử đề cập đến tổng trấn Phi-la-tô một cách khá tiêu cực với tính cách của một kẻ tàn bạo, dễ nổi giận và ghét Do-thái, trong khi nhiệm vụ của một tổng trấn là duy trì trật tự, xử kiện, giám sát việc thu thuế. Thực tế, có thể hiểu rằng vai trò tổng trấn cai trị một sắc dân bất khuất như dân Ít-ra-en là điều không dễ, nên mặc dù thời tổng trấn Phi-la-tô cai trị xứ Giu-đa nằm trong giai đoạn được gọi là “Pax Romana” (Hòa bình Rô-ma), nhưng thực tế ông Phi-la-tô vẫn không kiểm soát được tình hình trong khu vực, nên ở đó vẫn xảy ra nhiều xung đột về chính trị và xã hội giữa người Do-thái với chính quyền Rô-ma, cũng như giữa các nhóm Do-thái với nhau.
Trong vụ án Đức Giê-su, tổng trấn Phi-la-tô đóng vai trò là quan toà, nhưng đáng tiếc là một quan toà bất chính khi ông hoặc là để xoa dịu tình hình, hoặc là để lấy lòng người Do-thái, hoặc vì sợ hãi mà bất chấp công lý trao Đức Giê-su cho người Do-thái đem đi đánh đòn (x. Lc 23,22; Ga 19,1) và cuối cùng đóng đinh vào thập giá (x. Lc 23,24-25; Ga 19,6), dù ông tuyên bố rằng ông không tìm thấy lý do nào để kết tội Đức Giê-su (x. Lc 23,4.14.22; Ga 19,4).
II. Bối cảnh tôn giáo
1. Chức vị thượng tế
Trước hết, vai trò tư tế được trao cho những người được thánh hiến thuộc dòng dõi A-ha-ron của chi tộc Lê-vi (x. Xh 28–29; Lv 8–10). Theo phẩm trật tư tế thì chức vị thượng tế là cao trọng hơn cả, đồng thời người giữ chức vị thượng tế cũng được đòi hỏi phải thánh thiện hơn. Theo đó, vị thượng tế phải là người hoàn hảo, không bị khiếm khuyết về mặt thể lý, cẩn thủ tuân giữ Lề Luật, không cạo đầu, cạo râu,... Nhiệm vụ chính của vị thượng tế là dâng lễ đền tội cho dân mỗi năm một lần vào ngày Lễ Xá Tội (x. Lv 16). Trong ngày đó, vị thượng tế sẽ thực hiện các nghi thức thanh tẩy trước khi vào Nơi Cực Thánh. Sau đó, vị thượng tế sẽ dâng hương và rảy máu con vật hiến tế lên nắp xá tội của Hòm Bia Giao Ước để chuộc tội cho dân. Tóm lại, vai trò của vị thượng tế là trung gian giữa Thiên Chúa với dân Người, là người thay mặt dân Ít-ra-en dâng hy lễ lên Thiên Chúa để thanh tẩy tội lỗi của dân hầu dân Ít-ra-en có thể tiếp tục làm dân của Chúa.
Tuy nhiên, khi người Rô-ma cai trị Ít-ra-en thì thượng tế không còn thuần tuý giữ vai trò lãnh đạo tôn giáo, mà còn trở thành một chức vị mang tính chính trị. Theo đó chính quyền Rô-ma nắm quyền bổ nhiệm vị thượng tế khiến xảy ra vấn đề hối lộ, mua bán chức vị thượng tế này. Đây là lý do khiến dân Ít-ra-en dần mất đi niềm tin vào các thượng tế như người đại diện cho mình trước mặt Thiên Chúa. Trong bối cảnh đó chúng ta thấy bài Tin Mừng Lu-ca của Chúa Nhật II Mùa Vọng đề cập đến thượng tế Kha-nan và thượng tế Cai-pha (x. Lc 3,2).
2. Thượng tế Kha-nan
Thượng tế Kha-nan được Qui-ri-ni-ô, tổng trấn xứ Xy-ri (x. Lc 2,2), bổ nhiệm làm thượng tế vào quãng năm 6, và bị tổng trấn Va-lê-ri-ô Gra-tô truất phế vào năm 15. Tuy nhiên sau khi bị truất phế, ông Kha-nan vẫn là một nhân vật quyền lực ở Giê-ru-sa-lem, nên dù cho không giữ chức vị thượng tế một cách chính thức, ông vẫn được gọi là “thượng tế”. Ngoài ra, nhờ tài ngoại giao và có lẽ là có cả việc hối lộ, ông đã có thể sắp xếp để năm người con trai của ông là E-la-da (16-17), Giô-na-than (36-37), Thê-ô-phi-lô (37-41), Mát-thi-át (42-43), Kha-nan II (61-62) và Cai-pha (18-36) thay nhau giữ vai trò thượng tế, trong đó thượng tế Cai-pha là con rể của ông. Ngoài ra thượng tế còn có một cháu nội (con trai của Thê-ô-phi-lô) cũng làm thượng tế vào quãng năm 65-68.
3. Thượng tế Cai-pha
Là con rể của thượng tế Kha-nan, Cai-pha được tổng trấn Va-lê-ri-ô Gra-tô bổ nhiệm làm thượng tế của Ít-ra-en vào năm 18, tuy nhiên về sau ông bị thất sủng và bị Vi-ten-li-ô, tổng trấn xứ Xy-ri truất phế vào năm 36. Thượng tế Cai-pha là người đã tiên đoán về cái chết của Đức Giê-su khi ông tuyên bố với Thượng Hội Đồng rằng “thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50). Trong phiên toà xét xử Đức Giê-su, thượng tế Cai-pha đã phá qui tắc của một phiên toà hợp pháp và công bằng khi xét xử Đức Giê-su vào ban đêm và cho tìm các chứng gian để buộc tội Người, để cuối cùng chính ông đã kết án Đức Giê-su tội phạm thượng (x. Mt 26,65). Cuối cùng, ông Cai-pha là người cho điệu Đức Giê-su đến tổng trấn Phi-la-tô với mục đích nhờ tay chính quyền Rô-ma tuyên án tử Đức Giê-su (x. Mt 27,1-2). Sau khi Đức Giê-su phục sinh, thượng tế Cai-pha cũng là người tiếp tục các cuộc bách hại và ngược đãi các môn đệ Đức Giê-su (x. Cv 4,5-22).
III. Bối cảnh xã hội
Trong bối cảnh mà thượng tầng lãnh đạo xã hội và tôn giáo Do-thái bị khủng hoảng về phẩm chất như thế đã khiến cho các thành phần dân chúng trở nên hỗn độn và chia rẽ thành các nhóm Do-thái khác nhau, với những lập trường, quan điểm và khuynh hướng chính trị khác nhau:
+ Nhóm Xa-đốc thuộc tầng lớp quý tộc. Thuật từ “xa-đốc” gốc Híp-ri là “saddaqim” có nghĩa là “thành viên của hội đồng”, gồm các thượng tế, kỳ mục và kinh sư,… Nhóm này có khuynh hướng ủng hộ chính quyền Rô-ma, vì thế những nhười thuộc nhóm này không ưa trào lưu tư tưởng mê-si-a cũng như các phong trào cách mạng.
+ Nhóm Pha-ri-sêu (còn gọi là nhóm Biệt Phái, tức là những người tách mình khỏi phần đông dân Do-thái về đạo đức và văn hoá) thuộc tầng lớp trung lưu, có khuynh hướng bảo thủ, mong muốn bảo tồn Lề Luật và truyền thống Do-thái, chống phong trào Hy-lạp hoá và bất cộng tác với chính quyền Rô-ma. Mặc dù bất cộng tác với chính quyền Rô-ma, nhưng những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu không cố gắng tự mình lật đổ ách đô hộ Rô-ma, mà họ tin rằng Thiên Chúa tối cao sẽ giải thoát họ.
+ Nhóm Et-xê-ni là những người tin rằng Đền Thờ bị giới chức lãnh đạo tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem tham nhũng và đạo đức giả làm cho ô uế. Họ không từ chối Đền Thờ, nhưng từ chối những người điều hành Đền Thờ, nên phản ứng bằng cách rời bỏ thành thị vào sống ẩn dật trong hoang địa chờ đợi thời Thiên Sai đến trong niềm tin ngày Thiên Chúa giải thoát Ít-ra-en đã gần kề. Vì thế, họ sống chay tịnh, coi trọng sự thanh sạch, và không kết hôn.
+ Nhóm Nhiệt Thành (còn gọi là nhóm Dao Găm) là những người mong muốn thực hiện cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị ngoại bang để giải phóng Ít-ra-en. Vì thế nhóm này sẵn sàng tham gia các phong trào chống chính quyền Rô-ma.
Vì nhóm nào cũng bảo lưu quan điểm và lập trường của mình, cho mình là chính thống và đúng đắn nhất, nên kéo theo việc nhóm Pha-ri-sêu không ưa nhóm Xa-đốc và ngược lại, nhóm Ét-xê-ni thì xem thường cả nhóm Pha-ri-sêu lẫn nhóm Xa-đốc. Các nhóm này lại xem thường và lợi dụng số đông dân chúng thất học và quê mùa. Tất cả tạo nên một bầu khí chính trị, tôn giáo và xã hội hỗn độn và ảm đạm khiến dân chúng, hơn lúc nào hết, hướng về niềm hy vọng đấng Mê-si-a xuất hiện và giải thoát họ. Do đó khi ông Gio-an Tẩy Giả xuất hiện, ông giống như một tia sáng chiếu soi vào đêm tối. Ông đã trở thành niềm hy vọng của dân Ít-ra-en không phải chỉ bởi sứ điệp ông rao giảng, hay chỉ bởi việc ông làm phép rửa và kêu gọi người ta tỏ lòng sám hối (x. Lc 3,3) mà còn bởi vì đời sống khổ hạnh, đạo đức và công chính của ông (x. Mt 3,4). Chính con người của ông, cách sống của ông, và sứ điệp ông rao giảng là lý do khiến dân chúng ùn ùn kéo đến với ông mang theo niềm hy vọng về sự can thiệp mà Thiên Chúa đã hứa (x. Mc 1,4-5). Nói cách khác, ông lôi cuốn được người ta đến với ông không phải chỉ bằng cách cho người ta nghe tin mừng, mà còn bằng cách cho người ta thấy tin mừng bằng đời sống của ông.
Điểm lại đôi nét bối cảnh lịch sử mà trình thuật Tin Mừng Lc 3,1-6 đề cập để chúng ta không chỉ hiểu hơn về tâm trạng của dân Do-thái xưa, mà còn để nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta suy ngẫm, chờ đợi và hy vọng vào ơn Thiên Chúa cứu độ và đem lại cho nhân loại một thế giới được cứu độ, đang chờ đợi trời mới đất mới trong ngày quang lâm.
Cầu nguyện
Chúng ta cùng cầu nguyện bằng Tv 67 :
Nguyện Chúa Trời rủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài.
Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài.
Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh,
Người cai trị muôn nước theo đường chính trực
và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này.
Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài. Amen.
bài liên quan mới nhất
- Bài 98: Niềm trông đợi Đấng Me-si-a thời Đức Giêsu | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa
-
Bài 96: Cánh Chung luận theo Tin Mừng Luca | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 95: Ông là Vua sao? | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 94: Các chứng nhân tử đạo | Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 93: Hình ảnh "bà góa" trong Kinh Thánh | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 92: Torah và Luật Lệ Do-Thái | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 91: Tại sao gọi Chúa Giê-su là "Con Vua Đa-vít"? | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 90: Nhóm Mười Hai -
Bài 89: Con Lạc đà chui qua Lỗ Kim | Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 88: Nền tảng Kinh Thánh của lời kinh Mân Côi | Dưới ánh sáng Lời Chúa
bài liên quan đọc nhiều
- Bài 13: Chúa Thánh Thần qua các tước hiệu trong Kinh Thánh
-
Bài 32: Giờ thứ ba, giờ thứ sáu,... Giờ thứ mười một thời khắc trong Kinh Thánh -
Bài 14: Chúa Giêsu được ĐƯA LÊN trời -
Bài 42: Tỉnh thức hay Canh thức theo Kinh Thánh -
Bài 12: Cái Biết Theo Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 10: Sự kiện “hiện ra” trong trình thuật Kinh Thánh I Dưới ánh sáng Lời Chúa -
Bài 62: Chứng từ Đức Kitô Phục Sinh / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 20: Kiểu nói “Yêu, Ghét” trong Kinh Thánh -
Bài 64: Thiên Sai Luận Mục Tử / Dưới Ánh Sáng Lời Chúa -
Bài 66: Ở Lại Trong Tình Thương Của Thầy/ Dưới Ánh Sáng Lời Chúa